Chủ Nhật, 18 tháng 3, 2012

Đồng Hành Với Con Cái Trong Ơn Gọi Linh Mục Và Tu Sĩ



Thứ Năm, Ngày 15 tháng 3-2012
ĐỒNG HÀNH VỚI CON CÁI TRONG ƠN GỌI LINH MỤC VÀ TU SĨ
Ông bà Gérard và Monique Binsinger là tín hữu Công Giáo thuộc giáo phận Nancy ở miền Bắc nước Pháp. Vào năm 2007, khi quý tử của ông bà là thầy Pierre thụ phong Linh Mục thì trong giáo phận chưa có sự hiện diện của Hội Cha Mẹ Linh Mục Tu Sĩ gọi tắt là APPRR (Association des parents de prêtres, religieux et religieuses). Ông Bà liền viết thư cho Đức Cha Jean-Louis Papin và bày tỏ ước muốn thành hình Hội APPRR trong giáo phận Nancy. Đức Cha phúc đáp ngay và hoan hỉ chấp nhận đề nghị. Được sự đồng ý của Đấng bản quyền, Ông Bà bắt tay ngay vào việc. Qua trung gian của các Linh Mục, Ông Bà liên lạc với các bậc Song Thân của các Linh Mục và Tu Sĩ nam nữ và giới thiệu mục đích của Hội APPRR là: Tạo tình thân hữu và tương trợ giữa các bậc Cha Mẹ, nâng đỡ luân lý đạo đức, tinh thần và vật chất cho con cái là Linh Mục và Tu Sĩ. Sau cùng là dấn thân trong hoạt động cổ võ ơn gọi. Xin nhường lời cho Ông bà Gérard và Monique Binsinger.
Từ ngày chính thức thành hình, Hội Cha Mẹ Linh Mục Tu Sĩ trong giáo phận Nancy tiến bước từ từ. Hiện tại chúng tôi quy tụ khoảng 15 gia đình có con cái là Linh Mục và Tu Sĩ nam nữ. Chúng tôi gặp gỡ thường xuyên để trao đổi tin tức về con cái chúng tôi cùng với các sinh hoạt và đời sống mục vụ cũng như công tác tông đồ của con cái. Hy vọng trong thời gian tới đây sẽ có sự hiện diện của một Linh Mục đồng hành với chúng tôi.
 Từ lâu, trong gia đình, chúng tôi luôn cầu nguyện cho ơn gọi. Vì thế, ơn gọi của Pierre gieo vào lòng chúng tôi một niềm vui bao la. Nhưng chúng tôi vẫn ý thức sâu xa về vấn đề khan hiếm ơn gọi. Ngày nay giới trẻ gặp khó khăn trong vấn đề theo đuổi ơn gọi Linh Mục. Đây là con đường dài cần nhiều kiên trì và trung tín. Với tư cách là Cha Mẹ, chúng tôi cần biết lắng nghe, cũng như chính con cái chúng tôi cũng phải biết lắng nghe tiếng Chúa.
 Về con đường ơn gọi của Linh Mục Pierre, con chúng tôi, thì năm nay đang ở lứa tuổi 30. Đáng lý ra Pierre không chọn con đường Linh Mục nhưng đi theo một hướng khác. Vốn tính tình vui vẻ hoạt báo và yêu thích âm nhạc, Pierre ghi danh học luật. Nhưng rồi Pierre lâm trọng bệnh. Pierre nhận ra một dấu chỉ và nói với chúng tôi:
 - Con nghĩ rằng có ai đó, Trên Cao, không hài lòng với việc con theo đuổi ngành luật!
 Vài tháng sau đó, lúc vừa tròn 18 tuổi, Pierre xin vào lớp tiền chủng viện rồi gia nhập Đại Chủng Viện và thụ phong Linh Mục năm 25 tuổi. Ngoài Linh Mục Pierre, chúng tôi còn có 3 người con khác, và 1 trong ba người con này hiện nay là thị trưởng thành phố.
 Đối với chúng tôi thì Hội Cha Mẹ Linh Mục Tu Sĩ là một trợ giúp rất quý giá. Có nhiều bậc Cha Mẹ gặp khó khăn. Nguyên sự kiện không có cháu chắt nối dõi tông đường tạo nên một vấn đề lớn. Thêm vào đó còn có mối căng thẳng trong gia đình khi mọi phần tử không chia sẻ cùng một niềm tin. Do đó thật là điều quan trọng và cần thiết khi các bậc Cha Mẹ của các Linh Mục và Tu Sĩ có thể gặp gỡ để trao đổi vấn đề và nhận được sự nâng đỡ của các gia đình khác cũng trải qua một hoàn cảnh tương tự.
 Thật ra, nếu có khó khăn trong bước đầu của các bậc Cha Mẹ có con cái là Linh Mục và Tu Sĩ, thì dần dần với thời gian và gương sống, khi chúng tôi nhận ra con cái mình hạnh phúc trong ơn gọi, thì chúng tôi là bậc Cha Mẹ cũng cảm thấy thật hạnh phúc. Và chúng tôi cố gắng trong mức độ có thể để đồng hành và giúp con cái kiên trì trung tín trong ơn gọi Linh Mục và Tu Sĩ.
 ... ”Lòng con yêu mến Chúa, vì Chúa đã nghe tiếng con khẩn nài. Người lại lắng tai ngày con kêu cứu .. Chúa là Đấng nhân từ chính trực, THIÊN CHÚA chúng ta một dạ xót thương, hằng gìn giữ những ai bé mọn, con yếu đuối, Người đã cứu con. Hồn tôi hỡi, thôi bình tĩnh lại, vì trên ngươi, Chúa đã xuống ơn lành. Chúa cứu gỡ mạng tôi khỏi chết, giữ mắt này chẳng còn đẫm lệ, ngăn ngừa tôi khỏi phải hụt chân. Tôi sẽ bước đi trước mặt Người trong cõi đất dành cho kẻ sống .. Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ vì mọi ơn lành Người đã ban cho? Con xin nâng chén mừng ơn cứu độ và kêu cầu thánh danh THIÊN CHÚA. Lời khấn nguyền với Chúa, con xin giữ trọn, trước toàn thể dân Người. Đối với Chúa thật là đắt giá, cái chết của những ai trung hiếu với Người .. Con sẽ dâng lễ tế tạ ơn, và kêu cầu thánh danh THIÊN CHÚA. Lời khấn nguyền với Chúa, con xin giữ trọn, trước toàn thể dân Người, tại khuôn viên đền Chúa, giữa lòng ngươi, hỡi Giêrusalem!” (Thánh Vịnh 116(115)).
 (”Église 54, Magazine de l'Église catholique en Meurthe-et-Moselle, No 188, 30 Novembre 2011, trang 6-7)
 Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

BÀI 4


Bài 4: NGƯỜI CHIÊM BAO
Nếu can đảm đọc hết hai chương đầu của Tin Mừng Mát-thêu – điều này có thể được thực hiện dễ dàng vì tôi tin chắc rằng bạn đã quen với những câu truyện trong hai chương này – bạn sẽ gặp một nhân vật rất thú vị: Thánh Giu-se, người chiêm bao.

Đọc Mát-thêu 2: 19-23

Sau khi vua Hê-rô-đê băng hà, sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giu-se bên Ai-cập,20 báo mộng cho ông rằng: "Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Ít-ra-en, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi."21 Ông liền trỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Ít-ra-en.22 Nhưng vì nghe biết Ác-khê-lao đã kế vị vua cha là Hê-rô-đê, cai trị miền Giu-đê, nên ông sợ không dám về đó. Rồi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Ga-li-lê,23 và đến ở tại một thành kia gọi là Na-da-rét, để ứng nghiệm lời đã phán qua miệng các ngôn sứ rằng: Người sẽ được gọi là người Na-da-rét.

Suy Niệm:

Nếu can đảm đọc hết hai chương đầu của Tin Mừng Mát-thêu – điều này có thể được thực hiện dễ dàng vì tôi tin chắc rằng bạn đã quen với những câu truyện trong hai chương này – bạn sẽ gặp một nhân vật rất thú vị: Thánh Giu-se, người chiêm bao.
Bạn có để ý không nhỉ?
Thiên thần nói với ngài trong giấc mơ.
“Giu-se, hãy đi và cưới cô gái anh yêu mến, dù cô ấy đang có thai.”
Và Giu-se đã vâng lời.
“Giu-se hãy đưa gia đình anh qua Ai-cập.”
Giu-se đã lên đường như được bảo trong giấc mơ.
“Giu-se, đã đến lúc trở về Israel.”
Hãy quay về Israel, về Bét-lê-hem.
“A! Không phải thế Giu-se, không về Bét-lê-hem, nhưng về Nazareth.”
Thế là ngài quay về Nazareth.

Nhiều lần tôi nghe các bạn trẻ nói: “Điều này, điều kia là giấc mơ của đời tôi.”
Và khi nghe như thế, tôi thường hay bật cười.
Có thể bạn là một trong số những người có khả năng mơ với đôi mắt đang mở của họ.
Xin chúc mừng bạn nhé!
Bạn mến, nếu không mơ ước khi còn trẻ, thế thì đợi đến khi nào bạn mới mơ ước nhỉ?
Qua câu truyện Tin Mừng, chẳng lẽ bạn không để ý rằng Giu-se đã thực hiện những giấc mơ khi ngài còn rất trẻ đấy sao?
Ô! Trẻ như thế nào?
Có thể trẻ hơn bạn.
Đừng quên rằng giấc mơ đầu tiên xảy ra khi Maria và Giu-se chỉ ở trong độ tuổi của những người đang yêu. Vào thời đó người ta kết hôn sớm lắm. Chắc chắn là trước 20. Thôi cứ cho là 17 hoặc 18 vậy.
Chẳng có gì xấu khi chúng ta mơ về tương lai.
Nếu người ta biết cách kiểm chứng nó trong thực tế.
Để làm như thế Giu-se, người mơ khi đang ngủ, chỉ cần mở mắt và suy nghĩ về những giấc mơ.
Nói theo ngôn ngữ của hôm nay là: Nhận định.
Nhận thức rằng giấc mơ phải có một ý nghĩa nào đó. Rằng nó đến từ Thiên Chúa.
Nhưng trong trường hợp của bạn, vì hầu hết các bạn mơ với đôi mắt mở, thì bạn cần nhắm mắt lại.
Và suy nghĩ.
Nhận định.
Hãy hỏi chính bạn: Đây là ước mơ hay chỉ là sự ảo tưởng?
Liệu điều này sẽ đưa tôi đến đâu?
Liệu giấc mơ này có được nâng đỡ bởi một cuộc sống, qua đó mỗi ngày làm cho tôi trở nên người Ki-tô hữu hơn không?
Vì bạn thấy đó, ơn gọi luôn thôi thúc một người, sưởi ấm trái tim anh ta.
Đó là bản chất của ơn gọi. Nó làm cho người đó cất cánh bay lên. Bay lên, bay lên mãi, và luôn bay lên cao.
Nhưng ơn gọi cũng là một lời mời gọi đưa đến hành động.
Nó thúc đẩy anh ta phải làm một cái gì đó.
Bắt đầu với những người được gọi…. với chính chúng ta.
Nếu không tăng trưởng như là một Ki-tô hữu tốt; nếu càng ngày không càng cảm thấy gần Chúa hơn, tốt hơn hết cần kiểm tra lại ước mơ của bạn. Bạn có thể rất đau khổ nếu sống trong ảo tưởng. Bạn chỉ có thể sống tà tà như những người cưỡi ngựa chứ không thể bay lên cao như những người đi máy bay.
Và bạn thấy đó, bạn luôn muốn có một dấu chỉ để biết rằng điều bạn đang cảm nghiệm có phải là ơn gọi hay không.
Vâng, đơn giản thôi. Ý tưởng về ơn gọi có biến đổi bạn trở thành một người tốt hơn không? Nó có đang tác động cuộc sống của bạn hướng đến những điều tốt đẹp và cao thượng hơn không?
Có?
Thế thì, cờ đã kinh.
Đèn xanh đã bật rồi. Càng ngày thấy càng tiến triển.
Không? Nó chẳng tác động gì đến cuộc sống của bạn?
Vậy thì không phải là dấu hiệu tốt rồi.
Đèn đỏ chẳng?
Chưa chắc.
Nhưng chắc chắn là đèn vàng. Hãy xúc tiến với sự cảnh giác bạn nhé. Đừng xem nhẹ vấn đề.
Và tiếp tục khám phá. Tình thế có thể được cải thiện.
Thỉnh thoảng bạn cần nhắm mắt lại và tiếp tục đặt câu hỏi về ơn gọi của mình đó.

Thứ Bảy, 17 tháng 3, 2012

BÀI 3


Bài 3: CHỌN MỤC TIÊU

Trong hai tuần trước bạn đã được đọc hai bài suy niệm về - "Tại sao lại là tôi?" và "Sự may mắn đặc biệt." Mời các bạn tiếp tục Bài suy niệm về ơn gọi với chủ đề "CHỌN MỤC TIÊU" do cha Đaminh Phạm Minh Thắng, S.J. dịch và tổng hợp từ một cuốn sách cùng nhan đề "25 Gospel Meditations for times of discernment", của Santos G. Mena, S.J.

Đọc Mác-cô 3: 13-15

Rồi Người lên núi và gọi đến với Người những kẻ Người muốn. Và các ông đến với Người.14 Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng,15 với quyền trừ quỷ.16 Người lập Nhóm Mười Hai và đặt tên cho ông Si-môn là Phê-rô,17 rồi có ông Gia-cô-bê con ông Dê-bê-đê, và ông Gio-an em ông Gia-cô-bê -Người đặt tên cho hai ông là Bô-a-nê-ghê, nghĩa là con của thiên lôi-,18 rồi đến các ông An-rê, Phi-líp-phê, Ba-tô-lô-mê-ô, Mát-thêu, Tô-ma, Gia-cô-bê con ông An-phê, Ta-đê-ô, Si-môn thuộc nhóm Quá Khích,19 và Giu-đa Ít-ca-ri-ốt là chính kẻ nộp Người.

Suy niệm:

Mọi sự có vẻ đơn giản bạn nhỉ? Đúng không nào?
Vâng đúng thế! Thật đơn giản!
Tuy nhiên chẳng đơn giản chút nào đâu.
Vậy thì chúng ta cùng làm sáng tỏ vấn đề bạn nhé.
Nếu bạn đang đùa với ý tưởng – hoặc ý tưởng đang đùa giỡn với bạn – về việc trở thành một linh mục, một tu sĩ, hoặc về việc vào một Dòng Tu nào đó, bạn nên biết rõ điều liên quan đến ở đây là gì.
Biết được như thế, sẽ có ích lợi rất nhiều cho bạn đấy.

Để bắt đầu, bạn hãy xem nhé!
Chính Đức Ki-tô đang làm công việc chọn lựa chứ không phải bạn đâu.
Đây là điều được nói đâu đó trong Tin Mừng Gioan, “Không phải anh em chọn Thầy, nhưng chính Thầy chọn anh em.”
Nói cách khác, nếu bạn nghĩ rằng chính bạn là “người có ý tưởng sống đời dâng hiến,” là người đang thực hiện kế hoạch đi tu, là người muốn trở thành một linh mục hoặc một tu sĩ nam nữ, thì ngay lúc này, bạn nên gạt ra khỏi tâm trí mình cái ý tưởng đó nhé.
Trong vấn đề ơn gọi, chính Đức Ki-tô là Người có sáng kiến chứ không phải ai khác. Ngài thực hiện công việc kêu gọi, chính Ngài là Người khởi đầu tiến trình tuyển chọn này. Về phía mình, chúng ta chỉ cần đáp lại tiếng gọi đó, thế thôi.
Bạn không có quyền – không ai có quyền – để đánh giá chính bạn có giá trị hay không về việc trở thành người cộng sự gần gũi của Đức Giê-su. Bạn có thể dâng đời mình cho Chúa bất cứ lúc nào, và nói với Ngài: “Con nè Chúa, hãy gọi con nếu Chúa cần con.” Nhưng đây không phải là một công việc giống như khi bạn nộp đơn xin việc, và cũng chẳng phải là chuyện bạn kê khai bằng cấp, trình độ và những tài năng riêng của mình.
Tin Mừng cho ta thấy rõ điều này. Chính Đức Giê-su làm công việc tuyển chọn, mời gọi bạn gia nhập nhóm của Ngài. Chính Ngài gọi bạn. Lên núi, Ngài gọi những người Ngài muốn.
Thái độ đáp trả của chúng ta có thể là quảng đại, vui sướng, nhiệt thành, và v.v… nhưng quan trọng hơn hết vẫn là thái độ biết ơn và khiêm nhường.

Vâng! Ngài gọi bạn để làm gì?
Căn bản là để làm ba điều.
Liệu chúng ta có thể liệt kê ba điều này không nhé.

ĐIỀU THỨ NHẤT. Tin Mừng cho thấy: “Thầy chọn anh em để ở với Thầy.”
Hết sức rõ ràng, đúng không nào?
Để là bạn của Đức Giê-su.
Để là một trong những môn đệ gần gũi của Ngài.
Để chia sẻ cuộc sống của Ngài.
Để làm những công việc Ngài làm, đồng lao cùng khổ với Ngài, để vui với những gì làm cho Ngài vui.
Để yêu những điều và những con người Ngài yêu, và để chiến đấu chống lại những điều Ngài căm ghét và ghê tởm.
Tóm lại, chúng ta nói: Để trở thành một Giê-su khác.
Điều này thật cao cả; mặc dù, bạn biết, có thật nhiều điều để nói về điều đó, có nhiều điều nữa bạn có thể thêm vào.

ĐIỀU THỨ HAI. “Thầy sẽ sai anh em đi rao giảng.”
Điều này nghĩa là chia sẻ chính sứ mạng của Giê-su.
Rao giảng Tin Mừng.
“Hãy đi và rao giảng.”
Đây không phải là sự chia sẻ êm ái, thoải mái và dễ chịu; sự chia sẻ mang tính cảm xúc của những người thuộc về một nhóm hoặc một tổ chức nào đó.
Đó không phải là những người thuộc về nhóm Giê-su.
Giê-su có thể là một người bạn.
Giê-su phải trở thành người bạn của chúng ta.
Ngài rất vui khi trở thành bạn của người khác.
Nhưng Ngài lãnh nhận một công việc để thi hành.
Một sứ mạng được trao bởi Chúa Cha.
“Hãy đi và rao giảng,” đó là điều Cha nói với Ngài.
Giảng dạy muôn dân. Mở mang tâm trí và động viên họ.
Nói cho họ biết về tình yêu Chúa Cha dành cho con người. Về lòng thương xót và sự cảm thông, về sự tự nguyện cứu độ con người, và về việc làm cho họ trở thành con cái của Ngài.
Theo tôi, đây là điều thật căn bản trong lời mời gọi của Đức Giê-su.
Lời mời gọi của Ngài là lời mời gọi hành động.
Ngài là một con người rất năng động.
Và vì thế, trong cuộc sống như là những môn đệ, chúng ta phải có thì giờ cho tình bạn, cho cầu nguyện, và cho những giây phút thân mật của yêu thương và chia sẻ với Ngài.
Nhưng phải có điểm dừng cho tất cả những điều này.
Cầu nguyện cũng cần có điểm dừng.
Cảm xúc rồi cũng phải chấm dứt.
Sự lãng mạn cũng phải có điểm dừng.
Và chúng ta phải bắt chước Giê-su khi Ngài tạm dừng cầu nguyện – cuộc nói chuyện thân mật với Cha – khi Ngài đứng dậy và nói: “Nào, chúng ta hãy đi đến các thành thị để rao giảng Tin Mừng, Thầy được sai đến cốt là để làm điều này.”
Phải rõ như thế bạn nhé.

Và cuối cùng, Ngài trao cho họ quyền trừ quỷ.
Tôi nghĩ đây là ĐIỀU THỨ BA.
Nói cách khác, Ngài sai các môn đệ đi giúp người khác.
Giúp con người vượt qua những đau khổ trong cuộc sống.
Giúp họ loại ra khỏi chính mình những con quỷ của ích kỷ, của những chuyện xích mích lặt vặt, và của tất cả những gì làm cho một con người ra “ô uế”, những loại quỷ đang làm cho họ trở thành nô lệ.
Đồng thời, giúp họ biết ra khỏi những môi trường mang nặng bầu khí ranh ma.
Ra khỏi tình trạng của dối trá, nghèo nàn, bóc lột, ngu dốt, và của những điều làm cho con người mất đi nhân phẩm. Ra khỏi những điều làm cho người nghèo của thế giới này bị nô lệ.
Và để đánh thức những người giàu, những người quyền lực ra khỏi sự mê muội của giàu có, của quyền lực, của kiến thức, và của tất cả những điều đang làm cho họ trở nên bạo lực, kiêu ngạo, thô lỗ, lạm dụng, tham vọng và chai lì của con tim.
A ha! Nhiều thử thách đang chờ bạn đấy.
Vì đây là những sợi dây xích rắn chắc đang bảo vệ những người giàu và những người quyền lực.
Đó là một sự nô lệ đáng thương, nhưng họ lại yêu mến nó.
Một chương trình thật khó khăn phải không bạn?

Một chương trình đầy thách thức. Sứ mạng của Giê-su mà.
Bạn thấy đó Ngài đang cần nhiều sự giúp đỡ và cộng tác từ bạn.
Ngài cũng thấy điều đó.
Ngài kêu gọi con người.
Để ở và để cùng làm việc với Ngài.
Và vì thế, chúng ta đáp lời.
Chà! Không biết những điều này có làm con tim bạn rung động không vậy? Nhưng với tôi, tôi cảm thấy tim tôi thao thức, tim tôi nhói lên, tôi muốn nói với bạn như thế.
Đó là điều thật hấp dẫn.
Nhưng không dễ nuốt.
Và đó là điều làm cho ơn gọi trở nên hấp dẫn.
Hầu như không thể kháng cự.

Bạn có phản ứng nào không vậy?
Có điều gì bạn muốn nói với Giê-su ngay lúc này không?

BÀI 2


Bài 2: Sự may mắn đặc biệt

Mời các bạn tiếp tục Bài suy niệm về ơn gọi của Bài 2 với chủ đề "Sự may mắn đặc biệt" do cha Đaminh Phạm Minh Thắng, S.J dịch và tổng hợp từ một cuốn sách cùng nhan đề "25 Gospel Meditations for times of discernment", của Santos G. Mena, S.J

BÀI 2 - SỰ MAY MẮN ĐẶC BIỆT

Đọc Tin Mừng Luca 1: 26-38

Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét,27 gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a. 28 Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: "Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà."29 Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. 30 Sứ thần liền nói: "Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa.31 Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su.32 Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người.33 Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận." 34 Bà Ma-ri-a thưa với sứ thần: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng! " 35 Sứ thần đáp: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.36 Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng.37 Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được."38 Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói." Rồi sứ thần từ biệt ra đi.

Suy Niệm:

Các bạn nữ thân mến, câu chuyện trong đoạn Tin Mừng này dành cho các bạn đấy.
(Dĩ nhiên cũng dành cho các bạn nam nữa. Mọi người. Ai cũng có liên quan đến câu chuyện này).

Khi lên năm hoặc mười tuổi, Maria là người thế nào? Theo bạn, cô ấy cầu nguyện mỗi ngày mấy giờ?
Có phải chất liệu đầu tiên nuôi dưỡng đời sống cầu nguyện của Maria là một Thánh Vịnh không?
Cô ta có thực hiện điều kỳ diệu nào không? Chẳng hạn, chữa lành cho một người bạn cùng trang lứa khi bạn ấy bị té ngã trong một trò chơi nào đó?
Có bao giờ Maria cứu sống con một con chim én bị rơi xuống giếng trong ngôi làng của mình chăng?

Những câu hỏi thật ngớ ngẩn phải không bạn?
Thật ngớ ngẩn.
Maria đã chẳng làm những điều tưởng tượng như thế. Chắc chắn bạn biết mà.
Maria là một cô gái quê bình thường ở Nazareth; cũng như bao cô gái khác, vào lúc năm tuổi, chắc chắn Maria đã biết và rất thích chơi với một con búp bê; khi lớn hơn chút nữa, biết phụ mẹ rửa chén và giặt quần áo; quét nhà, học may vá, nấu cơm và làm vườn, v.v…
Chẳng nghi ngờ gì, ai cũng biết cô ấy là một người tốt, một người yêu mến tôn giáo của mình; là người có lòng kính sợ Thiên Chúa. Và hơn thế nữa: người có lòng yêu mến Thiên Chúa.
Đó là một cô gái.

Giờ đây, cô đã lên mười lăm.
(Thật vậy sao? Bạn cũng mười lăm tuổi rồi chứ?)
Vâng! Xin chúc mừng bạn nhé. Bạn bằng tuổi Maria khi cô đón nhận một tin trọng đại.
Cô biết được Tin Vui này từ một thiên thần. Thiên thần cho Maria biết một sứ điệp rằng cô sẽ trở thành mẹ của Đấng Messiah.

WOW!
Thật bất ngờ?
Bất ngờ quá!
Trở thành Mẹ của Đấng Messiah là giấc mơ điên rồ của bất kỳ cô gái Israel đương thời. Tôi nghĩ các cô gái không ngớ ngẩn đến nỗi vui thích trong sự ảo tưởng này.
Chắc chắn Maria cũng không. Cô ấy có đủ nhận thức và không dám nghĩ rằng mình có thể là một ứng viên.

Có lẽ cũng như bạn.
Bạn không bao giờ nghĩ rằng Chúa sẽ có những kế hoạch – kế hoạch trọng đại – dành riêng cho bạn.
Đúng thế. Bạn đang ở trong tâm trạng của Maria đấy.
Giờ đây bạn đang phân vân liệu Thiên Chúa có gọi bạn.
Vậy thì bạn sẽ làm gì với sự phân vân đó?
Giả như bạn biết rõ Chúa đang gọi bạn, bạn có sẵn sàng đáp lại lời mời gọi của Ngài không?

Đó là điều thú vị về Maria.
Với tất cả lòng thành, cô trả lời Thiên thần: “Làm sao tôi có thể từ chối? Tôi chưa bao giờ nói Không với Chúa. Tôi chỉ là nữ tỳ của Ngài. Ao ước của Ngài là mệnh lệnh cho tôi. Hãy làm nơi tôi điều Chúa muốn.”
Chỉ có thế, thưa bạn.

Bạn sẽ không nói với Chúa điều gì vào lúc này sao? Liệu bạn có dám nói với Chúa rằng:
“Lạy Chúa,
một khi nhận ra ý Chúa,
con sẵn sàng làm theo ý Chúa dù đó là ý gì đi chăng nữa.
Con biết rằng sẽ không có bất cứ Thiên Thần nào đến nói điều Chúa muốn nơi con.
Con chỉ có một từ để nói:
‘Fiat’ “Vâng!”
‘Xin cho điều đó được thực hiện.’
Và nếu Chúa không muốn con,
Con cũng sẽ nói: ‘Fiat, vâng! xin cho điều ấy được thực hiện.’
Ý Ngài, lạy Chúa,
là điều duy nhất có ý nghĩa cho đời con. Amen.”
Lạy Chúa, xin cho con biết lắng ng

25 Bài suy niệm về ơn gọi. Bài 1:


25 Bài suy niệm về ơn gọi.

Bài 1: TẠI SAO LẠI LÀ TÔI?

Các bạn trẻ thân mến, Có bao giờ bạn cảm thấy mình phân vân trong việc chọn lựa bậc sống không? Chắc là có chứ nhỉ? Nhiều lúc chúng ta đứng trước ngã ba đường, không biết mình nên đi tu, lập gia đình hay sống độc thân giữa đời. Trong những tuần sắp tới, mỗi tuần chúng tôi sẽ cố gắng cung cấp cho bạn một đoạn Tin Mừng để suy niệm và nhận định về ơn gọi nhé.

Các bạn trẻ thân mến,
Có bao giờ bạn cảm thấy mình phân vân trong việc chọn lựa bậc sống không? Chắc là có chứ nhỉ? Nhiều lúc chúng ta đứng trước ngã ba đường, không biết mình nên đi tu, lập gia đình hay sống độc thân giữa đời.
Trong những tuần sắp tới, mỗi tuần chúng tôi sẽ cố gắng cung cấp cho bạn một đoạn Tin Mừng để suy niệm và nhận định về ơn gọi nhé.
Những bài này được chúng tôi dịch từ cuốn: The J-Team: 25 Gospel Meditations for times of discernment (Manila: Cardinal Bea Institute, Ateneo de Manila Univerysity, 1989) của Santos G. Mena, S.J. Ngài đã về với Chúa cách đây vài năm. Cuốn sách này gồm 25 đoạn Tin mừng dành cho các bạn trẻ cầu nguyện và nhận định về ơn gọi trong những lúc đang phân vân.
Vậy chúng ta bắt đầu với bài một nhé.
Mến chúc bạn vui và tìm được con đường phục vụ Chúa và tha nhân.
Đaminh Phạm Minh Thắng, S.J

1 - TẠI SAO LẠI LÀ TÔI?

Đọc Tin Mừng Gioan 6: 1-15
Sau đó, Đức Giê-su sang bên kia Biển Hồ Ga-li-lê, cũng gọi là Biển Hồ Ti-bê-ri-a.2 Có đông đảo dân chúng đi theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm cho những kẻ đau ốm.3 Đức Giê-su lên núi và ngồi đó với các môn đệ.4 Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do-thái. 5 Ngước mắt lên, Đức Giê-su nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Phi-líp-phê: "Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây? "6 Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã biết mình sắp làm gì rồi.7 Ông Phi-líp-phê đáp: "Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút."8 Một trong các môn đệ, là ông An-rê, anh ông Si-môn Phê-rô, thưa với Người:9 "Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu! "10 Đức Giê-su nói: "Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi." Chỗ ấy có nhiều cỏ. Người ta ngồi xuống, nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn.11 Vậy, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Người cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý.12 Khi họ đã no nê rồi, Người bảo các môn đệ: "Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi."13 Họ liền đi thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng.14 Dân chúng thấy dấu lạ Đức Giê-su làm thì nói: "Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian! "15 Nhưng Đức Giê-su biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình.
Suy niệm:
Câu chuyện trong đoạn Tin Mừng bạn vừa nghe rất quen thuộc phải không nào? Nó là một trong những câu chuyện “ngạc nhiên” của Tin Mừng đấy bạn ạ.

“Wow!” Đó là lời kinh ngạc được thốt lên của nhiều ngàn người tối hôm đó khi họ được no thỏa sau một bữa ăn bất ngờ.
Họ nhận ra Đức Giê-su là một ai đó giống như một tiên tri. Ngài trở thành người hùng của họ. Và Ngài cũng là người hùng của tôi nữa.
Ngoài Giê-su, trong đoạn Tin Mừng này, ai còn có thể là người hùng của tôi? Trong câu chuyện này, tôi còn nhận ra những anh hùng bé nhỏ nào khác chăng? Họ là ai vậy? Phải chăng là An-rê? Phi-líp-phê? Và Phê-rô?
Hừm! ừm! “Ở đây có một cậu bé!” (Bạn có quên cậu ấy không vậy?) Và có lẽ cậu ta cũng kinh ngạc la lên “wow!” Chắc phải hơn mười lần vào tối hôm đó.
Cậu là ai vậy? Tên cậu ta là gì? Lý do gì mà tên của cậu được ghi lại trong Tin Mừng vậy? Cậu chỉ là một nhỏ nhắn và bình thường. Một cậu bé lạc lõng giữa 5 ngàn người.
“Không kể trẻ em và phụ nữ,” theo Tin Mừng Mát-thêu. Vào thời đó, trẻ em và phụ nữ là những người không quan trọng trong xã hội. Nếu có, họ cũng không được xem là đáng kể.
Chỉ là một cậu bé. Hãy suy nghĩ xem tại sao lại là một cậu bé? Điều đó có nghĩa gì? Tôi muốn nói, một cậu bé thật sự. Và cậu đã hiện diện ở đó, nơi đó cậu trở thành quan trọng.
Một cậu bé đã trở thành một người hùng bất hủ. Cậu đã làm cho ngày hôm đó trở thành ngày cứu độ. Cậu trao cho Đức Giê-su 5 chiếc bánh và 2 con cá cách tự nguyện hay miễn cưỡng?
Nếu 5 chiếc bánh và 2 con cá ngày hôm đó là bữa ăn tối của cậu, tôi không nghĩ rằng cậu hứng thú với ý tưởng trao chúng cho Đức Giê-su. Chắc chắn cậu không thể đoán được Đức Giê-su sẽ làm gì với 5 chiếc bánh và 2 con cá đó.
Hãy tưởng tượng. Chỉ cần tưởng tượng! Chuyện gì xảy ra nếu cậu từ chối? Đó là tự do và đặc quyền của cậu bé, phải không bạn? Chắc chắn, Đức Giê-su không ép buộc cậu bé trao cho Ngài 5 chiếc bánh và 2 con cá đúng không nào?
Đó không bao giờ là cách của Đức Giê-su. Ngài chỉ ngõ lời mời đối với cậu ta. Ngài chỉ mời gọi cậu ấy trao cho Ngài 5 chiếc bánh và 2 con cá mà thôi. Vâng! Nếu cậu ta từ chối, nếu cậu bé giữ lại 5 chiếc bánh và 2 con cá để dùng cho bữa ăn tối, không nghi ngờ chút nào, cậu sẽ có một bữa ăn tối tuyệt vời. Chắc chắn cậu sẽ cảm thấy thật hạnh phúc vào đêm hôm đó.
Nhưng, thưa bạn! Cậu ta sẽ bỏ lỡ một cơ hội trong cuộc đời của mình. Đó là trở thành người được cả thế giới biết đến cho tới ngày nay.

Hãy tưởng tượng cậu ta nói: “Tại sao lại là tôi? Tôi tin chắc rằng không phải chỉ một mình tôi trong đám đông hôm đó có bánh và cá. Chắc chắn nhiều người khác cũng có bánh và cá. Thậm chí có cả pho-mát, rượu, và nhiều thứ khác nữa.
Tại sao lại là tôi? Lẽ ra cậu ta đã nói như thế. Nhưng cậu đã không nói. Thực tế là cậu đã dâng hết cho Đức Giê-su. Và vì thế, thực sự tối hôm đó, cậu cũng được một bữa ăn no nê. Không chỉ một mình cậu. Nhờ cậu – vì sự quảng đại – mà 5 ngàn người khác cũng có một bữa ăn no nê vào tối hôm đó.
Không kể phụ nữ và trẻ em. Tôi nghĩ rằng, kể từ đây, các cậu và các cô phải được kể đến.
Vì thế, tại sao lại là bạn? Bạn có lý đấy. Bạn chỉ là một cậu bé. Bạn chỉ là một cô gái yếu ớt. Đức Giê-su cần bạn làm gì? Ngài và bạn sẽ chiếm được bao nhiêu phần trăm thế giới? Chỉ với một cậu bé? Chỉ với một cô gái?
Bạn có là gì đâu mà Đức Giê-su lại để ý đến? Tôi tin rằng bạn có thể kể tên nhiều đứa bạn học cùng lớp, nhiều đứa tài năng hơn bạn. Thậm chí còn đạo đức hơn bạn nữa kia.
Thế thì, tại sao lại là tôi? Đức Giê-su làm gì với những khả năng kém cỏi của tôi? Tôi chỉ có chút khả năng thôi mà.
Đó là vấn đề, bạn thân mến. Bạn không bao giờ nói trước được điều Đức Giê-su có thể đạt được cùng với bạn sau khi bạn hiến dâng để phục vụ Ngài.
Đối với Giê-su, bạn có giá trị. Cùng với Giê-su, bạn lại càng có giá trị hơn. Thật sự, bạn chẳng là gì. Nhưng trong tay Giê-su, thì…
Thế thì, tại sao lại là bạn? Nhưng tại sao lại không? Ngay lúc này, chẳng lẽ bạn không có gì để tâm sự với Giê-su chăng? Tại sao bạn không nhắm mắt lại tâm sự với Ngài?
Tại sao bạn không nói với Ngài: “Lạy Chúa, con sợ hãi. Con do dự trao cho Chúa 5 chiếc bánh và 2 con cá đời con. Hay bất cứ điều gì con có. Con sẽ không bao giờ biết… Có thể chính Chúa sẽ sử dụng 5 chiếc bánh và 2 con cá đó, và để cho con không có bữa ăn tối. Vì Chúa thấy đó con có thể có những kế hoạch cho riêng mình. Con cũng dự định sử dụng tài năng của con cho những mục đích cụ thể. Con dự định sống cuộc đời hoàn toàn theo ý con.
Lạy Chúa, Liệu kế hoạch Chúa dành cho con sẽ làm con hạnh phúc? Hãy tiếp tục tâm sự với Chúa bạn nhé.

(còn tiếp)


Ơn Gọi Như Lời Ban Cho



vocation2Khi nghe tới  ơn gọi, phần đông người trẻ nghĩ tới cổ  cồn Rôma hay bộ áo dòng. Nhưng theo một vị giám  đốc của một cơ quan quan sát quốc tế nhằm cổ  vũ học thuyết xã hội Công Giáo, ta cần phải canh tân ý niệm rộng rãi hơn về ơn gọi. Đó là nhận định của ông Stefano Fontana, một trong các giám đốc của Cơ Quan Quan Sát Văn Thuận Quốc Tế đặt trụ sở tại Ý. Ông vừa cho xuất bản cuốn sách tựa là "Parola e communita politica. Saggio su vocazione e attesa" (Lời và Cộng Đồng Chính Trị. Khảo Luận về Ơn Gọi và Hoài Bão). Trong buổi ra mắt sách, Fontana, cũng là một cố vấn của Hội Đồng Giáo Hoàng về Công Lý và Hòa Bình, cho rằng “cuộc khủng hoảng ơn gọi” là điều đáng lo ngại vì nó ngăn trở việc chung sống, ngăn trở “tính dễ tiếp nhận, lòng biết ơn và tính nhưng không”. Sách của ông nhằm đảo ngược lại khuynh hướng trên “vì ai không nghe thấy ơn gọi sẽ không biết phải đi đâu”
Theo Fontana, thế nào là ơn gọi? Ông bảo ơn gọi là một lời mời gọi, một lời nói ra nhằm tới tai ta và đòi ta một đáp ứng, một câu trả lời. Tự mình truyền đạt, ơn gọi lôi cuốn ta và mời ta tự thiết lập mình trong chính bản sắc mình. Đáp lại ý nghĩa từng lôi cuốn ta, ta tự thiết lập ta trong ý nghĩa của riêng mình. Khi khám phá ra một ý nghĩa mà chính ta không phải là người sáng chế, ta giáp mặt với một lời ngỏ với ta, một lời mời gọi, một ơn gọi. Ơn gọi là một hiện thân của thể vô điều kiện.
Trong cuốn sách, Fontana chủ trương rằng việc thiếu  ơn gọi đã cản trở việc phát triển của con người, hạn chế việc chung sống xã hội và  chính trị, và gây hại cho việc có một gia đình và cho việc dấn thân làm việc trong liên đới và trong liên hệ với người khác. Fontana chứng mình rằng hiện tượng đáng lo ngại nhất trong thời đại ta là khó khăn lắm ta mới đọc ra một lời ngỏ với ta, một ơn gọi, từ sự việc và từ cuộc sống của mình. Thật khó mà nhìn ra một ơn gọi trong những người ta yêu thương. Hôn nhân và gia đình càng ngày càng bị coi như những lựa chọn và quy ước, chứ không như những thực tại chứa đựng một đề nghị quan trọng mang ý nghĩa đối với nhân tính ta, một vẻ đẹp lôi cuốn và làm ta thích thú. Từ chính bản nhiên những con người nhân bản của ta, thật khó nhận ra một bài đọc cho thấy ta nên như thế nào, một định mức cho thấy con đường cần đi. Là một con người và là con người này phải chăng vẫn còn là một ơn gọi trước chủ nghĩa duy chủ quan và một nền văn hóa chỉ muốn ôm lấy duy nhất bản nhiên ở trong mình? Fontana cho rằng ngày nay, nhiều người không thấy trong bản sắc tính dục một ơn gọi nào, mà chỉ là một lựa chọn. Có một nhân tính được định hướng về tính dục không còn là điều để nói với ta và để thông truyền cho ta một kế hoạch, mà chỉ là một cấu trúc do chính ta tạo nên. Trọn cái thể lý của ta được coi như một cái gì đó để lên khuôn, lên kế hoạch, để đập bỏ và tái thiết, để phô trương trưng bày, chứ không phải như một ơn gọi để trân qúy.
Đức nết na giữ gìn (modesty) phát sinh do quan điểm coi thân xác như một lời ngỏ, nhưng thân xác ta chẳng còn điều gì để nói với ta, vì lời đầu và lời cuối trong nó ta phải đi tìm nơi son phấn và thuốc viên ngừa thai, trong viện thể thao thẩm mỹ và dao mổ, trong xilicon và trong những đường ngực thật thấp. Cả cái môi trường thiên nhiên đang ở trước mặt ta kia, cái thiên nhiên theo nghĩa hoàn toàn duy bản nhiên kia, cũng chỉ được nhìn như một toàn bộ những vật thể có tính chức năng. Cõi “tạo vật” không còn là ngôn từ của Ngôi Lời tạo dựng nữa, của lời hành động nữa, với một sứ điệp để loan truyền.
Trong xã hội ta đang sống, người ta đã quá đề cao cái tôi. Xem ra muốn hạnh phúc, người ta phải có  toàn quyền đối với thực tại và sự việc, phải có khả năng vứt bỏ những con người và những thân xác, phải thể hiện chủ nghĩa hưởng lạc một cách trọn vẹn và toàn diện. Phải chăng đó là các động cơ dẫn tới việc dập tắt ơn gọi và làm nản lòng những người không tìm thấy ý nghĩa ở đời? Đối với câu hỏi này, Fontana cho rằng cơn khủng hoảng ơn gọi là điều hết sức đáng lo ngại, theo cả nghĩa xã hội lẫn chính trị, bởi nó kìm hãm ba thái độ chủ chốt để sống chung: tính dễ tiếp nhận, lòng biết ơn và tính nhưng không, không tính toán.
Thái độ đầu tiên là tính dễ tiếp nhận (receptivity). Cuộc khủng hoảng dân số đang ảnh hưởng mạnh mẽ tới nhiều quốc gia và làm suy yếu các quốc gia này về phương diện luân lý trước sau mới là kinh tế chính là do cái tính khó  chấp nhận hết sức phổ biến này. Các luật lệ cho phép “trợ tự sát” cho thấy rõ tính khó khăn của việc chấp nhận sự sống. Chủ nghĩa đa văn hóa và sự thất bại của nó cho thấy thái độ dửng dưng khoan dung không phải là một chấp nhận đúng nghĩa. Đàng khác, đối với chúng ta, việc chấp nhận người khác dường như là điều không thể có nếu ta không chịu tự chấp nhận chính mình và được người khác chấp nhận.
Thái độ thứ hai là lòng biết ơn (gratitude). Nếu các con người và các kinh nghiệm không nói với ta, ta sẽ không nhận ra mình như kẻ mắc mợ, và do đó thật khó để ta biết ơn vì đã gặp họ. Gia đình ta, nền văn hóa của ta, tư cách là đàn ông hay đàn bà của ta, việc có con của ta, việc làm của ta, việc ta xuất thân từ một lịch sử, việc ta tiếp nhận sự sống, tất cả đều là những đối tượng để ta biết ơn nếu ta tìm ra một gia tài ngôn từ nói, một mạc khải ý nghĩa đem lại cho ta ánh sáng cách nào đó. Nếu không, chỉ là bác bỏ, là từ chối tất cả những thứ ấy, ngay cả xấu hổ, ghét bỏ vì phải chịu đựng hàng loạt những áp đặt và bạo lực, có khi còn công khai bác bỏ hay chối bỏ (apostasy) chính mình và quá khứ của mình. Ta cũng có thể sống chính căn tính ta bằng lòng biết ơn. Ngày nay, xem ra Phương Tây đặc biệt bị cái hội chứng xấu hổ về chính mình và vô ơn này tác động. Nếu không cảm thấy biết ơn đối với những người đã chuyển giao cho ta một số giá trị nào đó, ta cũng sẽ không cảm thấy có bổn phận phải chuyển giao các giá trị này cho người khác. Thiếu lòng biết ơn là bẻ gẫy tính liên tục giữa các thế hệ và tạo ra tình thế “khẩn trương về giáo dục”.
Thái độ thứ ba là tính nhưng không, không tính toán (gratuitousness). Ơn gọi được ban cho ta như một quà tặng, một ơn phúc. Đánh mất ý hướng ơn gọi là đánh mất ý hướng quà tặng, ơn phúc, là nghĩ rằng ý nghĩa là điều luôn luôn và chỉ do ta sản xuất ra mà thôi. Nếu quá khứ của tôi, bản nhiên của tôi và người khác không nói với tôi, điều ấy có nghĩa là chính tôi đã tạo ra ý hướng cho họ hay chính chúng ta tạo ra nếu nói tới các cơ cấu văn hóa và xã hội. Tự do là điều người ta tiếp nhận nguyên tuyền như một ơn thánh, mà đối với nó, người ta tỏ lòng biết ơn vì đã có khả năng tiếp nhận được nó.
Ơn gọi là thứ đem lại tất cả các thái độ trên vì nó không phải là một “lời ta phát biểu” mà là một “lời được phát biểu với ta”; bởi thế, nó là một lời được ban cho.

Vũ  Văn An

NHẬN ĐỊNH ƠN GỌI TU TRÌ



 Ơn gọi là một vấn đề rất phổ quát mà cũng rất riêng tư. Thiết nghĩ, các bạn trẻ, cũng như anh em Ứng sinh Dòng Tên chúng tôi, rất muốn tìm hiểu thêm nhiều điều thú vị xung quanh vấn đề này. Xin được chia sẻ các bạn trẻ những tác phẩm, tài liệu thiết thực về Ơn gọi, đặc biệt là Ơn gọi Dâng hiến. Ước mong, qua những chia sẻ này, chúng ta sẽ hiểu thêm về bản thân và nhận ra rõ hơn những ‘động lực ơn gọi’ bên trong mình, và hơn hết, lắng nghe tiếng Chúa Giêsu đang ân cần gọi mời trong tâm hồn.Tài liệu NHẬN ĐỊNH ƠN GỌI TU TRÌTác giả: Linh Mục Tôma Vũ Quang Trung, Giám Tỉnh Dòng Tên.

Dẫn nhập
Giáo Hội Việt Nam hiện nay là một trong số các Giáo Hội tại Châu Á đang có nhiều ơn gọi linh mục, tu sĩ. Nhiều bạn trẻ đang tiếp tục tìm đến các chủng viện, các dòng tu, đan viện, tu hội để xin được tìm hiểu ơn gọi tu trì.
Là những người được trao trách nhiệm nhận các em vào đời sống thánh hiến, chúng ta thường tự hỏi khi tiếp xúc với các em đến xin gia nhập cộng đoàn để sống đời tu trì: Động lực nào đã thúc đẩy bạn trẻ này đến đây để xin tìm hiểu và gia nhập chủng viện hoặc cộng đoàn? Đây là một câu hỏi không dễ có câu trả lời chính xác chỉ sau một vài ngày tĩnh tâm hoặc một vài tháng tìm hiểu!
Ơn gọi trước hết là một mầu nhiệm. Chúa gọi những ai Người muốn (x. Mc 3,13). Nhiệm vụ chúng ta là giúp các em khám phá ra tiếng Chúa gọi và đáp trả. Điều này diễn ra trong tiến trình nhận định ơn gọi. Tiến trình này lâu hay mau tuỳ thuộc vào việc nhận định các yếu tố liên hệ cho thấy có thể xác quyết đây là một ơn gọi thực sự.
Bài chia sẻ này xin trình bày về việc nhận định một ơn gọi, qua việc chú trọng đến việc khảo sát các động lực thúc đẩy một người trẻ đến xin gia nhập chủng viện, các dòng tu, đan viện, tu hội để trở nên các linh mục, tu sĩ.
I.        CÁC ĐỘNG LỰC Ý THỨC VÀ VÔ THỨC THÚC ĐẨY ƠN GỌI
Thế nào là động lực thúc đẩy ơn gọi? Đâu là những yếu tố can dự vào các động lực này? Một cách chung, động lực thường được hiểu như một ước muốn, một khao khát thực hiện một dự phóng, một mục tiêu nào đó của cuộc sống. Động lực này có những yếu tố bên trong và những yếu tố bên ngoài. Các yếu tố bên trong nằm ở tầng sâu thẳm của nội tâm mỗi người. Nó được diễn tả qua các ước muốn hoặc những sức mạnh lôi cuốn về một giá trị tinh thần hoặc thiêng liêng nào đó.
Trong các động lực thúc đẩy một người tìm đến một hướng sống hay một mục tiêu cho cuộc đời, cần lưu ý rằng, con người nào cũng đều có một phần tự do và một phần khác không hoàn toàn tự do. Vì vậy, những quyết định chọn lựa trong cuộc sống của mỗi người luôn chịu ảnh hưởng của mức độ tự do và không tự do của chính mình. Khi nhìn về đời sống linh mục, một chủng sinh có thể cảm thấy được lôi cuốn bởi một hình ảnh thật đẹp của một nhà truyền giáo đang vượt qua những thách đố và nguy hiểm để loan báo Tin Mừng cho các dân tộc đang sống nơi những vùng đất xa xôi, đầy gian nan, trắc trở. Một thiếu nữ có thể được đánh động bởi hình ảnh một nữ tu đang quên mình chăm sóc cho những trẻ em khuyết tật đáng thương hoặc các bệnh nhân AIDS giai đoạn cuối bị người thân bỏ rơi để đi đến quyến định chọn đời sống tu dòng. Trong sức hấp dẫn đầy lôi cuốn của những hình ảnh cao đẹp này, các bạn trẻ có thể nhận biết các động lực đang thúc đẩy trong lòng mà mình ý thức. Tuy nhiên, họ lại không thể biết đến những sức mạnh thôi thúc tiềm ẩn bên dưới nằm trong tầng sâu của vô thức. Chính những sức mạnh này ngấm ngầm chi phối cách mạnh mẽ quyết định chọn lựa hướng đi của cuộc sống mà họ không hề ý thức.
II.      NHẬN ĐỊNH VỀ CÁC ĐỘNG LỰC ƠN GỌI
Các nghiên cứu cho thấy rằng, trên bình diện ý thức, một bạn trẻ ước muốn trở nên linh mục hay tu sĩ thường bị lôi cuốn bởi lòng khao khát đi theo Chúa Giêsu qua việc dâng hiến đời mình để phục vụ tha nhân. Có bạn nói mình muốn đi tu để có thời giờ cầu nguyện và tìm sự bình an trong tâm hồn trong khung cảnh tĩnh lặng của đời chiêm niệm. Có những bạn khác khẳng định mạnh mẽ ước muốn trở nên một vị thánh. Lại không thiếu các bạn trẻ nghĩ rằng, nếu mình vào được nhà dòng, mình sẽ có cơ hội học tập tốt hơn, có thời giờ cầu nguyện nhiều hơn cho những người thân thuộc. Và biết đâu, lại chẳng có cơ hội được đi đây đi đó ra nước ngoài!
Tuy nhiên, các bạn trẻ lại ít biết rằng, bên cạnh những giá trị cao đẹp mà họ ao ước theo đuổi để thực hiện thì nơi thẳm sâu của tầng vô thức, có những sức mạnh khác thôi thúc họ chọn lựa đời tu không mấy phù hợp với các giá trị Tin Mừng, thậm chí hoàn toàn lệch lạc! Họ tìm kiếm để bù đắp một thiếu thốn sâu thẳm trong cuộc sống gia đình thời thơ ấu. Đời sống tu trì lúc này trở thành một môi trường thuận tiện có thể giúp họ thoả mãn những nhu cầu căn bản này.
Một cậu bé từ nhỏ đã luôn nghe mẹ nói: “Mẹ mong muốn con mai kia làm linh mục giống như bác con”. Ngày này qua tháng nọ, cậu bé được thấm dần ước mơ của mẹ cậu là cậu sẽ trở thành một linh mục, giống như bác cậu. Cậu vẫn hết lòng ngưỡng mộ bác cậu trong những lần bác có dịp về thăm mẹ và dâng lễ ngoài nhà thờ giáo xứ. Nghĩ về tương lai, nếu cậu làm linh mục giống bác cậu, mọi người dân trong làng sẽ kính trọng cậu. Mẹ cậu sẽ được mọi người xưng tụng là “bà cố”. Gia đình cậu sẽ được danh giá giữa xóm làng! Hướng đi tương lai của cậu như đã được xác định từ lúc cậu chưa đủ khả năng để có một quyết định chín chắn của một người trưởng thành!
Một cô bé nhà nghèo, vẫn phải đầu tắt mặt tối phụ việc với mẹ để lo kế sinh nhai cho gia đình, mà hoàn cảnh vẫn bữa đói bữa no. Nhờ các dì trong một nhà dòng gần đó giúp đỡ, cô bé mới có điều kiện đến trường. Một ngày kia, cô được mẹ gửi vào ở trong nhà nội trú của các dì. Ngày qua tháng lại, cô bé quen biết các dì hơn và sinh lòng cảm mến. Cô mong được sống như các dì mà không hề biết rằng mong ước tốt lành của cô chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của ước muốn thoát khỏi cảnh nghèo đói của gia đình, và hơn thế nữa, như một cách để trả ơn sự giúp đỡ của các dì.
Hai ví dụ trên đây cho chúng ta thấy một ơn gọi hướng đến đời sống tu trì luôn chịu ảnh hưởng bởi những động lực ý thức pha lẫn với những động lực vô thức.
Ơn gọi là tiếng gọi mầu nhiệm của Thiên Chúa dành riêng cho một người được kêu gọi và tuyển chọn cho một sứ mạng. Ngài thường dùng một số những dấu chỉ tự nhiên để lôi kéo con người đến ơn gọi này. Hai ví dụ trên đây còn giúp chúng ta hiểu được những động lực có thể thôi thúc một bạn trẻ dấn thân vào đời sống tu trì.  Đây là những dấu chỉ giúp chúng ta nhận định về ơn gọi của một bạn trẻ. Những dấu chỉ này vừa là những yếu tố bên trong, vừa là những yếu tố bên ngoài.
2.1 Các yếu tố bên trong
Khi kêu gọi ai, Thiên Chúa đặt trong lòng họ một ước ao sâu thẳm hướng họ về đời sống tu trì để trở nên linh mục, tu sĩ. Tuy nhiên, ước muốn vẫn chưa đủ. Một người có thể ước muốn bước vào đời tu với nhiều lý do khác nhau. Vấn đề là phải có động lực ơn gọi đúng đắn và trong sáng. Chính tại điểm này mà chúng ta chạm đến mầu nhiệm con người với tất cả sự phức tạp của đời sống tâm linh, nơi có sự tương tác qua lại giữa những nhu cầu vô thức và ý thức. Sự tương tác này gây ảnh hưởng lớn đến hệ thống các giá trị của một người và ảnh hưởng trên các động lực thôi thúc họ tìm đến ơn gọi. Một bạn trẻ bước vào đời tu có thể vừa do các nhu cầu, vừa do các giá trị mình theo đuổi. Vì vậy, các yếu tố bên trong của một ơn gọi có liên hệ trực tiếp đến các động lực ý thức và các động lực vô thức.
2.1.1 Các động lực ý thức
Các động lực ý thức là sự hiểu biết trực tiếp về chính mình. Các động lực này, dù chính đáng hay không, cũng vẫn dễ dàng nhận biết. Giáo Hội luôn mong chờ nơi các ứng sinh tìm đến ơn gọi với các giá trị tích cực. Một bạn trẻ có thể trả lời về lý do thôi thúc mình đi tu (1) vì mình muốn phụng sự Chúa, (2) vì mình muốn hiểu biết và yêu mến Chúa hơn, (3) vì mình muốn làm cho Nước Chúa được mở rộng, (4) vì mình muốn sống Tin Mừng sung mãn và triệt để hơn, (5) vì mình muốn cộng tác với Chúa để xây dựng thế giới này tốt đẹp hơn, (6) vì mình muốn chia sẻ niềm vui và hạnh phúc mình đang có cho người khác. Đó là những giá trị mà các bạn trẻ nhắm đến khi muốn dấn thân vào đời sống tu trì. Các động lực ý thức này thường hướng đến các giá trị thiêng liêng và tôn giáo.
Sự phức tạp trong tiến trình nhận định ơn gọi chính là mỗi người không chỉ có một động lực duy nhất khi đến với ơn gọi. Những động lực thúc đẩy ơn gọi nơi một người lại càng không hoàn toàn thuộc mức độ ý thức. Vì thế, bên cạnh những động lực ý thức vẫn có sự pha lẫn các động lực vô thức khác.
2.1.2 Các động lực vô thức
Các động lực vô thức thường rất khó nhận thấy. Thông thường, người ta cần nhờ đến các hình thức trắc nghiệm tâm lý hiện đại để khám phá ra các động lực này. Kết quả các loại trắc nghiệm này có thể giúp người ta khám phá và nhận biết mình rõ hơn. Một khi nhận biết các động lực vô thức, vốn thường bị lệch lạc và không lành mạnh, người ta có thể thanh luyện chính mình để mỗi ngày tiến đến sự tự do nội tâm hoàn hảo hơn.
Từ hai ví dụ trên đây, chúng ta có thể liệt kê ra một vài động lực vô thức thường hay tiềm ẩn dưới những giá trị tốt đẹp của bình diện ý thức như sau:          
(1)     Thực hiện ước muốn của cha mẹ
Ứng sinh được thôi thúc đến ơn gọi tu trì là để thực hiện ước muốn của cha mẹ. Chính người bạn trẻ không hề có xác tín cá nhân rằng mình nghe thấy tiếng Chúa kêu gọi và hoàn toàn muốn đáp trả tiếng gọi ấy. Khi nhận ra điều này, ứng sinh nhiều khi không đủ can đảm xin chuyển hướng khi biết rõ mình không có ơn gọi vì sợ làm cha mẹ buồn và thất vọng về mình. Nhưng khi cha mẹ không còn, thì việc chuyển hướng sẽ xảy ra vì động lực ơn gọi không còn nữa. Khi ấy, có thể ứng viên đã là một linh mục hay nữ tu nhưng lại không đủ sức tiếp tục con đường mà mình cho là đã chọn lựa một cách sai lầm trước đó chỉ để làm vui lòng cha mẹ! Nếu không bỏ cuộc thì đời sống tu trì lúc đó sẽ không còn ý nghĩa nữa. Nó chỉ là một chuỗi ngày kéo lê với tất cả mọi sự hỗn độn của nó, gây ra không ít khó khăn cho bản thân của người ấy vì không tìm được niềm vui và hạnh phúc, cho đời sống cộng đoàn và cho sứ mạng phục vụ của Giáo Hội.
Sự hiện diện của các linh mục, tu sĩ trong bà con họ hàng có thể ảnh hưởng đến việc chọn lựa ơn gọi của một ứng sinh. Ảnh hưởng này có thể tốt hoặc xấu tuỳ trường hợp. Nếu ứng sinh bị cuốn hút vì những giá trị tinh thần và thiêng liêng cao đẹp nơi sự dấn thân của các linh mục, tu sĩ này thì sự hiện diện đó sẽ sẽ ảnh hưởng tốt trên ơn gọi của ứng sinh. Ngược lại, nếu ứng sinh chỉ bị lôi kéo về các giá trị có vẻ thế tục ngoài xã hội như thấy họ có địa vị cao, được mọi người kính trọng, có cuộc sống đầy đủ tiện nghi… thì sự hiện diện này sẽ ảnh hưởng xấu trên ơn gọi của ứng sinh. Lúc đó, ứng sinh có thể theo đuổi ơn gọi để tìm kiếm các giá trị thế tục này cho bản thân mình.
(2) Ước muốn phát triển bản thân
Một bạn trẻ có thể được thôi thúc bước vào đời tu như một con đường tiến thân mở ra một bảo đảm tương lai cho bản thân. Lúc ấy, đời tu như một môi trường thuận lợi để phát triển các tài năng cá nhân. Việc phục vụ trở nên một cơ hội phô trương cái tôi trước mặt mọi người. Đặc biệt, trong bối cảnh hôm nay của Giáo hội Việt Nam, nhiều bạn trẻ gõ cửa các nhà dòng, tu hội là để có cơ hội học hành tốt hơn, thậm chí chỉ là để được đi ra nước ngoài. Khi mục tiêu này trở thành đích nhắm của ơn gọi, người ta sẵn sàng chấp nhận uốn mình vào kỷ luật đời tu trong thời gian huấn luyện để ráng “nín thở qua sông”. Qua tới bờ bên kia, họ trồi lên khỏi mặt nước và tiếp tục con đường của riêng mình!
(3)  Thoát khỏi cảnh nghèo
Ơn gọi tại Việt Nam hôm nay đa số phát xuất từ những gia đình nghèo ở miền quê. Điều này cũng có thể ảnh hưởng đến việc theo đuổi ơn gọi của ứng sinh. Kinh nghiệm thiếu thốn về đời sống vật chất khi còn ở gia đình có thể biến việc theo đuổi ơn gọi như một bù trừ nhằm thoát khỏi cảnh nghèo đói. Đời tu được xem như bảo đảm chắc chắn về đời sống vật chất và sự an toàn cho tương lai. Khi có được những điều mình tìm kiếm, đời tu cũng sẽ chẳng còn ý nghĩa!
(4) Mong được người khác chú ý
Đây là một nhu cầu phát xuất từ khuynh hướng sâu thẳm rất tự nhiên nơi con người: nhu cầu được mọi người chú ý đến. Việc theo đuổi đời tu là một chuỗi ngày tìm kiếm, lôi kéo sự chú ý của người khác dưới mọi hình thức. Những người này thường làm ra vẻ “nhân vật quan trọng”, thường hay lăng xăng trong những dịp đại lễ dù mình chẳng có nhiệm vụ gì! Việc học tập, thay vì được nhìn như phương tiện để có khả năng phục vụ, lại trở thành cơ hội tốt để chơi trội, để “nổi” hơn người khác. Những người này dễ có thái độ ghen tương với bất cứ ai trong cộng đoàn được chú ý hơn họ, hoặc ngấm ngầm tìm cách loại trừ, hạ bệ những ai có khả năng vượt trội hơn họ. Họ không thích làm những việc âm thầm nhưng tìm mọi cách để cho người khác nhìn thấy mình mà ca ngợi.
(5) Mong được người khác nhận biết
Ước muốn được người khác nhận biết cũng là một khuynh hướng căn bản và thâm sâu nơi con người. Khuynh hướng này có thể chi phối các hoạt động của một ơn gọi trong sứ mạng phục vụ. Thay vì nhắm đến ích lợi của người mình được sai đến để phục vụ thì lại tìm kiếm những ích lợi riêng cho chính bản thân mình.
(6) Mong được người khác chấp nhận
Được người khác chấp nhận cũng có nghĩa là được yêu thương, được thấy mình có giá trị. Một người để khuynh hướng này lấn át trong những quyết định chọn lựa hướng đi thì sẽ không đủ cam đảm để đứng về phía chân lý và khó có thái độ cương quyết khi phải quyết định một điều chính đáng và đúng đắn mà làm phật lòng kẻ khác. Lối sống này dễ đưa đến tình trạng “dĩ hoà vi quý”, hoà bình bằng mọi giá, miễn sao mình được người khác chấp nhận là được, không dám lên tiếng trước những sai trái của người khác!           
(7) Ước muốn bù trừ sự thiếu vắng tình cảm trong gia đình
Đây cũng là một sức mạnh tiềm ẩn không ngừng thôi thúc ứng sinh nhằm tìm kiếm bù trừ những thiếu vắng trong các tương quan của thời thơ ấu, đặc biệt trong lĩnh vực tình cảm. Sự thiếu vắng tình cảm của người cha hoặc người mẹ trong những năm tháng ấu thơ dễ làm cho đời sống cảm xúc của một ứng sinh mất đi sự quân bình. Sự thiếu vắng này thôi thúc ứng sinh thiết lập các tương quan khả dĩ bù đắp được những thiếu vắng về nhu cầu tình cảm của bản thân. Những thôi thúc này, nếu không được đưa ra ánh sáng ý thức để thanh luyện và trưởng thành về tâm cảm, sẽ đưa ứng sinh đến các tương quan thiếu lành mạnh, thậm chí nguy hiểm dưới những hình thức “yêu riêng” hoặc lệch lạc tình cảm trong đời tu, gây ra những xáo trộn và ảnh hưởng không tốt đến đời sống chung của một cộng đoàn.
(8) Tìm kiếm sự an toàn cho bản thân
Đời tu được tìm kiếm như một thành luỹ vững chắc cho tương lai. Sự bảo đảm về vật chất và sự an tâm về tương lai biến đời tu như một lối đi an toàn cho bản thân. Những người này sẽ ít dám liều lĩnh dấn thân trong các sứ vụ đụng chạm đến sự an toàn của bản thân, đặc biệt trong những lãnh vực khó khăn hoặc những sứ vụ nhiều thử thách, nguy hiểm đòi sự can trường và tín thác vào quyền năng Chúa.
(9) Tìm kiếm sự kính trọng, danh dự
Đời tu có thể bị biến tướng thành một cuộc tìm kiếm ngấm ngầm hư danh của thế gian nơi những thành công của các công việc tông đồ. Lời khen, tiếng chê của người khác dễ gây ảnh hưởng trên quyết định chọn lựa của ứng sinh trong sứ mạng phục vụ. Đặc biệt, yếu tố danh dự gia đình dễ gây ảnh hưởng lớn đến quyết định theo đuổi ơn gọi của ứng sinh, làm cho ứng sinh mất đi thái độ tự do nội tâm cần thiết trong việc nhận định, tìm kiếm và thi hành thánh ý Chúa trong cuộc đời mình.
(10) Sợ hãi người khác phái
Những kinh nghiệm tiêu cực trong thời gian thơ ấu đối với người khác phái sẽ để lại một nỗi sợ hãi đầy lo âu xao xuyến nơi tâm lý ứng sinh. Quyết định theo đuổi ơn gọi trong đời sống độc thân khiết tịnh vì Nước Trời vốn là một giá trị thiêng liêng tích cực, có thể trở thành sự che đậy nỗi sợ hãi đối với người khác phái khi ứng sinh chọn đời sống tu trì như một tránh né những phiền toái của đời hôn nhân do nỗi sợ hãi này gây ra. Điều này lại càng đúng nếu vết thương tâm lý do một biến cố quá khứ để lại vết thương khó chữa trị trong đời sống tinh thần và tâm linh của ứng sinh. Nỗi sợ hãi này có khi làm tê liệt khả năng thiết lập những tương quan tốt đẹp và lành mạnh trong sứ mạng phục vụ đối với tất cả mọi người khác phái.
Những động lực vô thức trên đây thường xuất phát từ những nhu cầu căn bản không được thoả mãn của thời thơ ấu. Nếu tình trạng này không được đưa ra ánh sáng ý thức để hiểu biết về chính mình, để được thanh luyện và điều chỉnh, thì tiến trình theo đuổi ơn gọi của một bạn trẻ sẽ dễ bị lệch lạc và thiếu vắng sự tự do nội tâm cần thiết cho mọi quyết định của một người trưởng thành về tâm cảm, về thiêng liêng và chín chắn trong ơn gọi. Vai trò của các vị đồng hành thiêng liêng trong tiến trình giúp đỡ các ứng sinh nhận định về ơn gọi của mình hết sức quan trọng. Điều này không chỉ tiến hành trong thời gian của một cuộc tĩnh tâm nào đó là đủ. Nó cần một sự thanh luyện và hoán cải liên tục trong suốt chặng đường ơn gọi để đi đến sự tự do nội tâm hoàn toàn để trở nên một dụng cụ mềm dẻo, dễ sử dụng và hữu hiệu trong bàn tay quyền năng Chúa.
2.1.3  Dụ ngôn lúa tốt và cỏ lùng (Mt 13,24-30)
Dụ ngôn này là một hình ảnh Kinh Thánh có thể  minh hoạ cho chúng ta hiểu rõ hơn về tình trạng lẫn lộn các động lực ý thức và các động lực vô thức trong một ơn gọi cũng như cách thức chúng ta cần tiến hành đối với cả hai loại động lực này.
Người đi gieo hạt giống tốt tương trưng cho một bạn trẻ đến với ơn gọi linh mục tu sĩ với tất cả động lực trong sáng, lành mạnh. Kẻ thù gieo cỏ lùng giữa đồng lúa ban đêm tương trưng cho sự hiện diện của các động lực vô thức không mấy phù hợp với các giá trị Tin Mừng.
Khi lúa mọc lên thì cỏ lùng cũng xuất hiện. Điều này làm cho người gieo giống tốt bối rối và lúng túng. Đó là sự lúng túng của người bạn trẻ tự hỏi không biết mình có ơn gọi tu trì không khi thấy các động lực vô thức lệch lạc xuất hiện trên bình diện ý thức.
Khuynh hướng tự nhiên của người bạn trẻ khi thấy những động lực vô thức xuất hiện là nghĩ đến mình bất xứng với ơn gọi cao quý nên lìa bỏ ơn gọi hoặc nghĩ rằng mình không có ơn gọi. Thái độ này tựa như thái độ của những đầy tớ đề nghị với chủ cho đi nhổ tất cả cỏ lùng trong ruộng lúa đang xanh tốt. Thế nhưng nếu họ làm như vậy thì sẽ có hại đến các cây lúa đang mơn mởn phát triển. Sẽ có những thời điểm thuận tiện để làm công việc luyện lọc này. Cần để cả lúa tốt lẫn cỏ lùng lớn lên đến mùa gặt. Đây là thời điểm một ơn gọi trưởng thành. Sự phát triển nhân bản, thiêng liêng cùng với cảm thức về nhân vị, về căn tính, về trách nhiệm sẽ cùng lớn lên theo. Đó là lúc ngưới ta có khả năng đối diện với các động lực vô thức cách trưởng thành hơn và thích hợp hơn. Đó cũng là lúc ngưới ta có thể đi đến những quyết định tự do hơn dựa trên những gì mình nhận định để sống phù hợp hơn nữa với các giá trị Tin Mừng.
2.1.4  Phân loại ứng sinh
Dựa trên sự pha trộn giữa những động lực ý thức và những động lực vô thức, chúng ta có thể đưa ra 3 loại ứng sinh đến với ơn gọi linh mục tu sĩ:
(1) Ơn gọi như tìm kiếm một địa vị xã hội
Sức hấp dẫn của ơn gọi tu trì đối với loại ứng sinh này là sự pha trộn giữa các thôi thúc ý thức với các thôi thúc vô thức. Trên bình diện ý thức, ứng sinh hiểu rằng ước muốn hy sinh sống đời tu trì sẽ được bù đắp bằng việc đạt đến một vị trí đáng được người khác kính trọng. Tuy nhiên, vẫn có những thôi thúc vô thức đi liền với những chọn lựa ý thức của ứng sinh như ước muốn được người khác chú ý, được nhìn nhận, được kính trọng, được phát triển tài năng cá nhân, thoát khỏi cảnh nghèo... Cũng có khả năng ứng sinh bị cuốn hút bởi các yếu tố bên ngoài như tu phục, biểu tượng của sự quý mến của mọi người hay một bậc sống được mọi người trân trọng.
(2) Ơn gọi như thực hiện một công việc mình thích
Sức hấp dẫn ứng sinh loại này đến với ơn gọi tu trì là một công việc, một sứ mạng cụ thể nào đó. Cuộc sống tu trì là một công việc cụ thể hơn là sự cam kết dâng hiến bản thân.
Xét về động lực ý thức thì nó có thể tích cực hoặc tiêu cực. Tích cực, nếu sức hấp dẫn đến từ một sứ mạng hoặc một sự dấn thân phục vụ. Tiêu cực, nếu nó không đưa đến sự thanh luyện. Điều gì sẽ xảy ra cho một linh mục hoặc một nữ tu loại này nếu vì một tai nạn hoặc một sự cố nào đó, họ không còn khả năng làm việc đó nữa? Điều gì sẽ xảy ra nếu dòng tu ấy không còn điều kiện thi hành sứ mạng qua công việc phục vụ đó nữa? Ví dụ, một thiếu nữ đi tu chỉ vì thích dạy học nhưng bây giờ cộng đoàn không được quyền mở trường nữa chẳng hạn? Có khá nhiều bạn trẻ đến với ơn gọi linh mục tu sĩ thuộc loại thứ hai này. Họ cần được thanh luyện khỏi các động lực vô thức thường không phù hợp với các giá trị Tin Mừng.
(3) Ơn gọi như một dấn thân do xác tín về một giá trị thiêng liêng
Sức hấp dẫn ứng sinh loại này đến với đời sống tu trì là ước muốn gặp gỡ sâu xa với Chúa Giêsu. Họ muốn nên giống Chúa Giêsu trong cung cách hành xử, nơi các nhân đức, các giá trị. Họ ý thức đây là một tiến trình đòi hỏi sự hoán cải liên tục về các thôi thúc, cũng như việc nhận định thiêng liêng để đáp lại lời mời gọi và vượt qua những thách đố để thực thi sứ mạng hằng ngày. Họ ước muốn dấn thân trong ơn gọi để trao ban hơn nữa. Họ trưởng thành về tâm lý và thiêng liêng. Nếu xét về tỉ lệ, ứng sinh loại này chỉ chiếm một số ít. Họ vẫn có những ước mơ đóng góp vào việc làm biến đổi thế giới và làm cho thế giới trở thành một nơi xứng đáng hơn để ở. Họ sinh nhiều hoa trái thiêng liêng trong cuộc sống dâng hiến và tông đồ.
Trong hoàn cảnh thực tế hiện nay của Việt Nam, các bạn trẻ cần được chuẩn bị trong những năm tìm hiểu và nhận định ơn gọi để có thể đi từ loại một và loại hai sang loại ba. Các ứng sinh loại cuối cùng này sẽ có sự bền vững nhất trong tiến trình theo đuổi và sống ơn gọi dâng hiến và tông đồ cách sung mãn. Đây là loại ứng sinh có những dấu chỉ tốt nhất về ơn gọi tu trì.
2.2 Các yếu tố bên ngoài
Ngoài các yếu tố quan trọng bên trong, chúng ta còn chú ý nhận định một số các yếu tố bên ngoài sau đây xem ứng sinh có phù hợp với ơn gọi không:
(1) Sức khoẻ: Ứng sinh cần có sức khoẻ tốt và bền bỉ để có thể theo đuổi ơn gọi và thi hành sứ mạng tông đồ trong tương lai. Hiện nay, nên chú ý đến tình trạng bệnh lý về tim mạch do cuộc sống có nhiều căng thẳng gây ra nơi các em. Cần lưu ý đến các yếu tố tâm lý có thể ảnh hưởng đến sức khoẻ thể lý, đặc biệt những xung đột nội tâm.
(2) Tuổi tác: Không nên quá trẻ, cũng không nên quá lớn tuổi. Độ tuổi tốt nhất hiện nay khoảng từ 18 đến 24 tuổi. Tuổi càng lớn sẽ càng khó huấn luyện vì hầu hết nhân cách và quan niệm sống của một người đã hình thành. Ứng sinh càng lớn tuổi càng khó có khả năng biến đổi trong quá trình huấn luyện.
(3) Trưởng thành thiêng liêng: Có nền tảng cần thiết cho một đời sống đức tin vững chắc vào Thiên Chúa. Biết cách cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa. Yêu mến sự gắn bó kết hiệp mật thiết với Chúa. Siêng năng lãnh nhận các bí tích, đặc biệt bí tích Hoà Giải và Thánh Thể. Có hiểu biết căn bản về Giáo lý Công giáo. Tham gia một số các hoạt động tông đồ cụ thể trong giáo xứ hoặc những hình thức phục vụ xã hội khác. Có những đức tính căn bản như sự chân thật, lòng trung tín, quảng đại phục vụ, không sợ hy sinh.
(4) Trưởng thành tâm cảm (Psycho-emotional maturity): Ứng sinh cần có mức độ trưởng thành về tâm cảm cần thiết để cuộc sống được quân bình trong mối tương quan với những anh chị em khác trong cộng đoàn. Có khả năng thiết lập những tương quan lành mạnh trong đời sống tông đồ phục vụ. Cần chú ý đặc biệt khả năng sống đời sống khiết tịnh thánh hiến trong bối cảnh xã hội văn hoá mở cửa hôm nay. Không rơi vào các mặc cảm tự ti hoặc tự tôn vốn cản trở sự phát triển của một nhân cách tôn giáo lành mạnh. Khả năng biết mình và sống tự do nội tâm.
(5) Khả năng trí thức: Cần có khả năng trí thức trung bình hoặc cao hơn tuỳ mức đòi hỏi của chủng viện, dòng tu, tu hội. Khả năng này nhằm đáp ứng việc tiếp nhận những kiến thức về đời sống đức tin, những môn học cần thiết trong quá trình huấn luyện. Khả năng này thường được đánh giá qua chỉ số IQ (Intelligence Quotitent). Nhưng cần lưu ý, chỉ số này chỉ mang tính tham khảo về khả năng ứng sinh chứ không có tính quyết định để được nhận hay không. Một ứng sinh có thể rất thông minh nhưng lại thiếu khả năng sống tương quan trong cộng đoàn hoặc khả năng tạo lập những tương quan lành mạnh với tha nhân trong cuộc sống phục vụ. Các nghiên cứu chuyên môn cho thấy không có mối tương quan chặt chẽ giữa chỉ số thông minh (IQ) và mức độ trưởng thành về tâm cảm (EQ).
(6) Một số các đòi hỏi khác: Tuỳ theo mỗi linh đạo và đặc sủng phục vụ mà ứng sinh cần đáp ứng một số các điều kiện khác như khả năng viết lách, thuyết giảng, chăm sóc bệnh nhân, sống với người nghèo, thích ứng được với các vùng truyền giáo…
LỜI KẾT
(1) Vừa là một mầu nhiệm đến từ tiếng gọi của Thiên Chúa, vừa là một tiến trình nhận định thiêng liêng từ phía con người để đọc và khám phá ra dấu chỉ ơn gọi nơi các bạn trẻ, tiến trình nhận định ơn gọi tu trì vừa đòi hỏi những vị đồng hành thiêng liêng nhiều kinh nghiệm nhân bản và thiêng liêng, vừa có những hiểu biết sâu xa về con người, đặc biệt là hiểu được tâm thức và ngôn ngữ của các bạn trẻ hôm nay để giúp họ khám phá tiếng gọi của Chúa và quảng đại đáp trả.
(2) Để vun trồng ơn gọi nơi người trẻ, ước muốn mà thôi vẫn chưa đủ. Cần giúp các bạn trẻ hiểu biết và nhận ra điều gì đang thúc đẩy mình tìm đến với ơn gọi. Cần làm sáng tỏ cả động lực ý thức lẫn các động lực vô thức để đi đến một nhận định thiêng liêng sâu xa về lịch sử  của từng ơn gọi.
(3) Ơn gọi, trước hết là lời mời gọi trở nên một con người có niềm tin sâu xa vào Thiên Chúa. Kế đến là lời mời gọi bước vào một lối sống, lối sống nhân bản, làm người, nền tảng căn bản cho mọi tiếng gọi khác. Từ đây, người trẻ mới có khả năng đáp trả tiếng gọi của niềm tin, đi theo Chúa Kitô một cách triệt để trong đời sống tu trì và dâng hiến của linh mục, tu sĩ để lớn lên trong sự phát triển hài hoà giữa nhân bản và thiêng liêng nhờ hiểu biết hơn về chính mình.
(4) Dù con người có một phần tự do và một phần không hoàn toàn tự do nhưng Thiên Chúa mời gọi chúng ta lớn lên trong tự do mà Chúa đã tạo dựng. Chúa muốn chúng ta tự do trong việc đáp trả tiếng Chúa kêu gọi khi quyết định chọn lựa đời sống linh mục, tu sĩ.
(5) Động lực ơn gọi là nhân tố chính yếu để bảo đảm cho sự bền vững của ơn gọi tu trì. Mỗi ơn gọi đều pha trộn giữa những động lực ý thức với những động lực vô thức. Những động lực vô thức cần được đem ra ánh sáng để được thanh luyện từ từ theo các giá trị Tin Mừng. Nếu những động lực vô thức này không được thanh luyện, một người sẽ trở nên khuyết tật về nhân cách và không thể trưởng thành để sống ơn gọi linh mục tu sĩ cách tốt đẹp và đem lại hoa trái thiêng liêng cho cuộc sống phục vụ.
(6) Sau cùng, ơn gọi tu trì hướng đến tâm điểm là chính con người của Đức Giêsu, mẫu mực của mọi ơn gọi. Đáp lại tiếng Chúa mời gọi là noi theo cung cách sống và hành xử của chính Chúa trong sứ mạng yêu thương và phục vụ cho sự sống của tha nhân như Chúa Giêsu: “Tôi đến để cho đoàn chiên được sống và sống dồi dào”(Ga 10,10).
CÂU HỎI GỢI Ý THẢO LUẬN

* * * * *
1. Trong bối cảnh xã hội và Giáo Hội Việt Nam hôm nay, đâu là các động lực ơn gọi khá phổ biến mà chúng ta thường gặp thấy nơi các bạn trẻ ước mong trở nên linh mục, tu sĩ?

2. Theo kinh nghiệm của Anh Chị, làm thế nào để giúp các bạn trẻ tìm hiểu ơn gọi khám phá và thanh luyện các động lực vô thức nơi ơn gọi của mình?

3. Đâu là vai trò của vị đồng hành thiêng liêng trong tiến trình giúp người bạn trẻ nhận định về ơn gọi của mình

[1] Trình bày dựa theo những ý tưởng chính của bài thuyết trình “Beneath and Beyond the Roman Collar and the Habit: Motivations For Priestly and Religious Vocation” của Sr. Judette Gallares, RC. Tại Hội nghị Chuyên đề về Ơn gọi tại Châu Á do Liên HĐGM Châu Á (FABC) tổ chức tại Trung tâm Huấn luyện Mục vụ Tổng Giáo phận Bangkok, Thái Lan, Baan Phu Wann, ngày 23-10-2007, với ứng dụng vào hoàn cảnh cụ thể của Giáo Hội tại Việt Nam.
(Theo betrenthuongcap.net )